Bài Hòn Vọng Phu 2, còn có tên khác là Ai Xuôi Vạn Lý, được nhạc sĩ Lê Thương sáng tác khoảng cuối năm 1945, đầu 1946, lúc ông theo kháng chiến và đang lẩn trốn quân Pháp ở vùng Mỹ Tho, Bến Tre. Đêm đêm nghe dế than, cá thòi lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Sống trong lằn ranh của sống và chết, trong lòng người nhạc sĩ dâng lên niềm tiếc nuối mênh mang như lòng người chinh phụ
“Một mối duyên chung vạn kiếp người”. Chỉ với một câu hát này, nhạc sĩ Lê Thương đã giải thích đầy đủ ý nghĩa nội dung cả 3 bài Vọng Phu của ông. Cả vạn kiếp người, vạn kiếp đời, nhưng có một mối duyên giống nhau. Ngàn đời trước, hay ngàn đời sau, khi mà đất Việt vẫn còn chiến chinh, thì người chinh phụ vẫn mòn mỏi đợi chờ người chinh phu, rồi hóa thành Đá Vọng Phu. Đó là hình ảnh biểu tượng cho sự sắt son mong đợi chồng của những người vợ, người mẹ, của những người trót mang mệnh biệt ly. Vì vậy mà “dân chúng đem ca tụng duyên Bà”, cũng là ca tụng sự bất diệt của dòng máu anh hùng đất Việt.
Hai ca khúc Bông Điên Điển và Em Về Miệt Thứ của nhạc sĩ Hà Phương là những ca khúc nhạc quê hương tiêu biểu nhất thời kỳ sau năm 1975. Sau một thời gian dài kể từ biến cố 1975, tạm quên đi chuyện nghệ thuật để xoay sở mưu sinh, mãi đến những năm 1990 nhạc sĩ Hà Phương mới sáng tác trở lại. Đó là giai đoạn ông cùng người bạn thân là nhạc sĩ Thanh Sơn được Trung tâm băng nhạc Vafaco mời về hợp tác.
Một buổi chiều, cô nữ sinh Lâm Phúc Anh sửa soạn một chiếc áo dài màu vàng yêu thích rồi rảo bước ra phố. Khi đi ngang qua số nhà 22 – Võ Tánh, ngay từ xa, cô đã thấy một người đàn ông vóc dáng nhỏ bé đang ngồi trên một phiến đá trước hiên nhà, trầm tư nhìn ra ngõ. Cô gái bỗng hồi hộp khi bất chợt nhận ra rằng người đó đang thấp thoáng nhìn mình. Khi cô bước ngang qua, người đàn ông nhã nhặn mở lời: Chào cô!
Khi yêu, có lẽ không một ai nghĩ đến là sẽ kết thúc bằng một sự cô đơn, không ai nghĩ rằng sẽ có ngày người mình yêu sẽ lên xe hoa cùng người khác. Tuy nhiên, có mấy ai có thể trọn vẹn được với cuộc tình của mình, dù có thề non hẹn biển ra sao đi nữa, thì một khi đã không còn chung lối, thì sẽ có một người còn lại với nỗi cô đơn. Đó là câu chuyện trong bài hát Người Yêu Cô Đơn của nhạc sĩ Đài Phương Trang (được ký với tên thật là Phạm Vũ Anh Tứ).
Đã bao nhiêu hôm rồi, anh vẫn lang thang vô định trên con phố dài buồn tênh. Bóng chiều đang dần tàn úa, nắng đã tắt ở cuối trời, anh chưa biết đi về đâu, khi trong lòng còn đang giông bão, không một nơi nương tựa trú ẩn nào. Thành ghế đá quen thuộc kia nay đã lẻ loi dưới ánh đèn công viên vàng vọt, thiếu vắng bóng dáng xưa êm đềm, và ái ân ngày cũ thì cũng đã đâu còn gì nữa.
Tự hỏi và cũng là tự trả lời. Một nỗi sầu dâng lên chất ngất. Tình học sinh trong sáng, thơ ngây và rất dễ phai phôi. Bởi vì từ đó trở về sau, trên bước đường đời dài đằng đẵng còn lại, mấy ai đoán biết trước sẽ có điều gì đang đón đợi mình. Cuộc đời mong manh như vậy, nên cuộc tình học sinh cũng hóa thành nhỏ bé và dễ rơi khỏi tầm tay.
Khi hai người yêu nhau mà hoàn cảnh không cho được sum họp, tôi nhớ thương rồi viết bài “Nhớ Người Yêu”. Nhưng sau đó xảy ra những tình huống khác làm cho mối tình thêm bi đát, tình yêu đó giằng xé ghê gớm nên tôi tiếp tục viết “Thương Nhớ Người Yêu”. Nhưng rồi tôi vẫn tiếp tục nhớ người ấy sáng, trưa, chiều, tối và lại cho ra đời ca khúc “Lại Nhớ Người Yêu” để thể hiện sự thương nhớ bất diệt”, nhạc sĩ Giao Tiên kể lại mối tình không trọn vẹn của mình
Có một chiều nội trú, mênh mang theo những cảm xúc của thuở bắt đầu mơ mộng, biết buồn, biết nhớ. Có một chiều nội trú xa xăm tơ tưởng. Để rồi khi bất chợt nhận ra ánh mắt ai da diết quá khiến lòng bồi hồi đến lạ, vừa trông chờ, vừa nghi hoặc, phân vân. Tâm hồn rộng mở đón nhận những rung động đầu đời đang chớm nở hoài mong, vương vấn. Nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang đã dùng giai điệu dịu dàng mà dè dặt, ngọt ngào nhưng thoáng chút ưu tư mở đầu cho nhạc phẩm “Bâng Khuâng Chiều Nội Trú” để khơi gợi lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy trong miền hoài niệm riêng của mỗi người
Danh ca nhạc vàng Chế Linh tên thật là Chà Len, được sinh ra trong một gia đình người Chăm nghèo. Từ thuở nhỏ, ông được một tu sĩ người Pháp hướng dẫn học nhạc. Từ đó, vì đam mê âm nhạc và cảm thấy vùng đất gió phan và đầy nắng cháy này không thể nuôi dưỡng ước mơ của mình, Chà Len đã rời quê để vào Sài Gòn lập nghiệp năm 1959, khi mới 17 tuổi.