Hơn 60 năm trước, bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” của nhà thơ Kiên Giang ra đời (1957) đã làm xôn xao dư luận một thời. Bài thơ còn được biết đến nhiều hơn khi được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc bất hủ.
“Thuở ấy anh hiền và nhát quá …”
17 tuổi, anh học trò Trương Khương Trinh (tên thật của thi sĩ Kiên Giang) rời vùng quê Rạch Giá lên Cần Thơ học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ) ở Trường trung học tư thục Nam Hưng. Vốn là người có hoa tay: vẽ vời và viết chữ rất đẹp nên ông được các thầy cô giáo cho thực hiện một tờ báo (chép tay vào cuốn vở học trò) lấy tên là Ngày Xanh.
Tờ báo này là đối trọng, giao lưu với tờ Thắm của Trường trung học Ba Sắc, cũng nằm trên địa bàn. Cứ vào chủ nhật mỗi tuần, các cô cậu “nhà báo – học trò” lại quây quần trong một vườn xoài xanh um bóng mát để thực hiện tờ báo. Kiên Giang biên tập bài vở và trình bày (vẽ, trang trí…), còn cô bạn Nguyễn Thị Nhiều thì chép bài vở (có lẽ chữ cô này đẹp hơn chữ của Kiên Giang!).
Tuy mang cái tên rất dân dã nhưng cô Nhiều rất đẹp với mái tóc dài ôm xõa bờ vai, thỉnh thoảng vờn bay trong gió. Mái tóc ấy, khuôn mặt ấy đã khiến tâm hồn non trẻ nhưng rất lãng mạn của chàng trai sau này trở thành nhà thơ… tơ vương. Gia đình nàng theo đạo Thiên Chúa nên mỗi sáng chủ nhật nàng thường đi lễ nhà thờ Cần Thơ. Kiên Giang không theo đạo nhưng sáng chủ nhật nào cũng “rình” trước cổng nhà thờ để được “tháp tùng” nàng trên đường đi lễ về.
“Yêu nhau” chỉ có vậy: ngoài những cái liếc mắt và những nụ cười thẹn thùng, e ấp thì hai người chẳng còn thứ gì để “trao đổi” nữa cả. Tuy thế, cả hai đều cảm nhận được những tình cảm sâu kín mà họ dành cho nhau. Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra, kéo dài suốt 9 năm (1945-1954), việc học hành bị gián đoạn, trường lớp tan tác… Kiên Giang và bạn bè vào Khu 8 tham gia kháng chiến, và rồi ông lập gia đình trong thời gian này.
Thi sĩ Kiên Giang
“Để nghe khe khẽ lời em nguyện”
Sau này, thi sĩ Kiên Giang kể lại: “Điều xót xa (sau này mới biết) là trong những tháng ngày loạn lạc đó, Nhiều vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Năm 1955, nàng quyết gặp mặt tôi một lần rồi mới lấy chồng. Tình cảm cứ ám ảnh tôi khôn nguôi. Tôi đưa hình ảnh và tâm sự của hai đứa vào bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím, làm tại Bến Tre năm 1957.
Ở đoạn kết có những câu:
“Ba năm sau, chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về giữa áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi tiễn biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang…”
Tôi đã “cho” người mình thầm yêu phải chết đi, để mối tình kia còn nguyên vẹn là của riêng mình. Tuy nhiên, một thời gian sau tôi có dịp gặp lại cố nhân ở Sóc Trăng (lúc này nàng đã có chồng). Sau cuộc gặp gỡ đó, không hiểu sao tôi lại muốn mình (người bạn trai trong bài thơ) chết để bảo vệ quê hương, để không còn vương vấn mối tình thuở học trò.
Tôi đã sửa lại đoạn kết như thế ở Hàng Xanh (Gia Định), nhưng hầu như bạn đọc chỉ thích giữ nguyên tác, nhất là khi nó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc thì bài thơ lại càng nổi tiếng, lan tỏa. Có lần tôi thú thực với bà xã về cái ấn tượng “sắc hoa trắng – màu áo tím”. Từ đó không có màu tím trong tủ áo nhà tôi nữa…”.
Trong thơ là thế nhưng sự thật ngoài đời chẳng có ai chết cả. Năm 1977 họ lại có dịp gặp nhau. 33 năm đã trôi qua kể từ “Thuở ấy anh hiền và nhát quá/Nép mình bên gác thánh lầu chuông/Để nghe khe khẽ lời em nguyện/Thơ thẩn chờ em trước thánh đường…”, bây giờ gặp lại, hai mái đầu đã bạc. Cả hai cố tránh không nhắc nhớ về cái thời cùng học dưới mái trường Nam Hưng, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn trân trọng “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”.
Thi sĩ Kiên Giang kể lại, đầu năm 1999 Hãng phim truyền hình TP.HCM (TFS) thực hiện một bộ phim tài liệu về ông mang tên Chiếc giỏ đời người (Kiên Giang đi đâu cũng kè kè một chiếc giỏ, mặt ngoài vẽ chi chít chữ – NV), trong kịch bản có một cảnh quay tại Cần Thơ. Khi ông và ê kíp làm phim đến nhà “người xưa” mời bà Nhiều ra quay cảnh ở nhà thờ chính tòa thì thấy ngôi nhà đóng cửa, lạnh ngắt. Người hàng xóm cho biết bà Nhiều đã qua đời năm 1998. Ông thật xót xa… Hôm sau ông trở lại, cô con gái của bà Nhiều kể rằng lúc bà mất, tang gia có gửi thiệp báo tin cho ông nhưng tiếc là ông đã không nhận được để tiễn biệt người xưa lần cuối thực sự chứ không phải tiễn biệt như trong thơ.
Xin đăng lại 2 phiên bản của bài thơ này để bạn đọc so sánh, bài đầu được viết ở Bến Tre năm 1957, bài thứ 2 được chính tác giả sửa lại năm 1958 ở Gia Định:
Trước năm 1975, bài thơ được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc thành ca khúc cùng tên. Sau đó, nhạc sĩ Anh Bằng lại dựa vào bài thơ “Hoa trắng thôi cài lên áo tím” để viết thành ca khúc “Chuyện tình hoa trắng” thật lâm ly.
Bản nhạc “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” xuất bản lần đầu tiên
Hai bài hát “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của Huỳnh Anh và “Chuyện tình hoa trắng” và Anh Bằng cùng tồn tại, dù được khai thác ở hai góc độ khác nhau. Bài hát “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” mang nội dung lưu luyến:
Từ khi giặc tràn qua xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tôi thương
Giữ màu tím tôi mơ
Giữ hàng tre, cây đa xiêu đầu làng
Pháo hồng đưa chuyến đò sang sông
Áo tím ngày xưa đi lấy chồng
Chuông đổ ngân vang hồn vĩnh biệt
Đưa em về bến đục hay trong
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Tàn rồi bao kỷ niệm xa xưa
Núi xanh, sông biếc còn rơi lệ
Hoa trắng nay thành hoa cố nhân
Nghe Thanh Thúy hát Hoa Trắng Thôi Cài Lên Áo Tím (Huỳnh Anh)
Còn bài hát “Chuyện tình hoa trắng” lại mang đầy day dứt:
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp áo quan tài
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Nỗi buồn ôi kỷ niệm ban đầu
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu
Chiều nay áo tím bơ vơ
Thương cành hoa trắng trên mồ người xưa
Nghe Như Quỳnh hát Chuyện Tình Hoa Trắng (Anh Bằng)
* Tổng hợp từ bài của nhà báo Hà Đình Nguyên và Tuy Hòa